Bệnh ung thư máu có chữa được không?
Hiện nay có nhiều phương pháp điều trị bệnh ung thư máu. Việc lựa chọn phương pháp điều trị phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tình trạng sức khỏe bệnh nhân, loại ung thư máu, mức độ nặng cũng như từng giai đoạn của bệnh. Việc phát hiện và điều trị sớm có ý nghĩa quan trọng giúp giảm triệu chứng, hạn chế sự phát triển cũng như kéo dài thời gian sống cho bệnh nhân.
I. Bệnh ung thư máu có chữa được không?
Ung thư máu là bệnh lý ác tính, diễn biến phức tạp nên việc điều trị gặp nhiều khó khăn và hiệu quả điều trị chưa cao lắm so với một số dạng ung thư khác. Đối với bệnh ung thư máu hiện nay khi chưa xác định được chính xác nguyên nhân nên trong hầu hết các loại ung thư máu chưa thể điều trị triệt để và dứt điểm. Tuy nhiên các phương pháp sẽ giúp kiểm soát bệnh cũng như giúp bệnh nhân sống lâu dài hơn.
Khi mắc ung thư máu bệnh nhân sẽ được dự đoán tiên lượng bệnh dựa vào tình trạng phát triển bệnh, giai đoạn và những tổn thương thực thể qua xét nghiệm và kiểm tra. Nhìn chung nhóm bệnh nhân trẻ em có tiên lượng tốt hơn, sự hồi phục cũng nhanh hơn, giảm dần khi tăng tuổi. Phát hiện sớm cũng đem lại cơ hội sống cho bệnh nhân. Vì vậy các biện pháp chẩn đoán chính xác và bệnh nhân được chẩn đoán sớm đóng vai trò quan trọng trong việc điều trị. Các tiên lượng của một số loại ung thư máu như sau:
– Bệnh bạch cầu lympho cấp tính (ALL): Đây là loại ung thư máu có đối tượng mắc chủ yếu là trẻ em. Nếu phát hiện sớm thì hầu hết ở trẻ em đều được chữa khỏi hoàn toàn. Tuy nhiên bệnh tiến triển khá nhanh nên khi phát hiện ở giai đoạn muộn thì tiên lượng sống không tốt, trung bình bệnh nhân sống thêm khoảng một vài tháng.
– Bệnh bạch cầu dòng tủy cấp tính (AML): Nếu bệnh được phát hiện sớm và điều trị tích cực, 20 – 40% bệnh nhân sống thêm ít nhất 5 năm. Bệnh xảy ra ở người càng lớn tuổi thì tiên lượng bệnh càng kém.
– Bệnh bạch cầu dòng tủy mạn tính (CML): Nếu phát hiện ở giai đoạn đầu và điều trị tích cực người bệnh có tiên lượng sống ít nhất 8 năm. NHưng sẽ giảm còn 5,5 năm nếu phát hiện ở giai đoạn 2 và còn trung bình khoảng 4 năm ở giai đoạn cuối.
– Bệnh bạch cầu lympho mạn tính (CLL): Ở loại ung thư máu này các phương pháp điều trị kiểm soát tốt và bệnh nhân thường có tiên lượng sống khoảng 10 – 20 năm khi điều trị tích cực. Tuy nhiên nếu mắc bệnh có tế bào T thì tiên lượng rất xấu.
Hầu hết các bệnh ung thư máu ở trẻ em có thể chữa khỏi
II. Các phương pháp điều trị ung thư máu
Như đã đề cập ở trên việc chỉ định phác đồ điều trị phù hợp phụ thuộc nhiều yếu tố. Sự lựa chọn phác đồ phù hợp với từng bệnh nhân được cân nhắc dựa trên nhiều yếu tố như:
– Tuổi tác của người bệnh,
– Tình trạng sức khỏe chung, các triệu chứng của bệnh.
– Loại ung thư máu, thể bệnh cấp tính hay mạn tính…
Có một số thể ung thư chưa cần thiết áp dụng ngay các biện pháp điều trị sau khi được chẩn đoán. Khi đó bệnh nhân sẽ được theo dõi tiến triển bệnh trước khi điều trị tích cực. Nếu may mắn bệnh nhân có thể không cần phải điều trị. Bên cạnh đó như trong bệnh bạch cầu cấp tính việc điều trị cũng chia ra từng giai đoạn gồm có tấn công, củng cố và duy trì. Mỗi đợt điều trị sẽ có các chỉ định cụ thể. Thường bệnh nhân sẽ được kết hợp các phương pháp trong cả quá trình điều trị bệnh.
Các phương pháp điều trị ung thư máu được áp dụng hiện nay gồm có: Xạ trị, hóa trị liệu, thuốc điều trị nhắm mục tiêu, cấy ghép tế bào gốc tủy xương, liệu pháp miễn dịch điều trị kháng thể…
1. Theo dõi
Với trường hợp bệnh nhân mắc ung thư máu thể mãn tính, bệnh có tiến triển khá chậm. Ví dụ như bệnh Lơ-xê-mi kinh dòng lympho trong giai đoạn đầu bệnh nhân thường chưa áp dụng điều trị tích cực mà chỉ theo dõi và đánh giá định kỳ. Chỉ khi bệnh tiến triển nặng hơn thì hoặc chuyển sang giai đoạn khác mới cần phải điều trị.
Theo dõi và kiểm tra định kỳ không có nghĩa là bạn hoàn toàn không được điều trị. Điều đó giúp bạn kiểm soát tình trạng bệnh và sẵn sàng nếu phải áp dụng các biện pháp điều trị ngay lập tức. Nếu ung thư máu không gây ra tình trạng cấp tính nào thì việc theo dõi cũng tránh được tác dụng phụ của các phương pháp điều trị ung thư gây ra.
2. Hóa trị liệu
Khi thực hiện điều trị bằng hóa chất bệnh nhân sẽ được dùng thuốc chống ung thư để can thiệp, ngăn chặn sự phát triển và tiêu diệt tế bào ung thư. Thuốc được đưa qua nhiều phương thức khác nhau như viên nén dùng đường uống, thuốc tiêm, truyền tĩnh mạch hoặc tiêm dịch não tủy.
Hóa trị liệu được thực hiện theo chu kỳ. Trong một chu kỳ sẽ điều trị với một số hóa trị và sau đó bệnh nhân được nghỉ ngơi một thời gian mà không cần điều trị. Ví dụ, bạn có thể hóa trị một lần mỗi ngày trong năm ngày, và sau đó có ba tuần mà không cần điều trị. Số lượng chu kỳ sẽ phụ thuộc vào loại thuốc và loại ung thư máu bạn đang mắc phải. Hóa trị cũng có thể được thực hiện trước khi cấy ghép tế bào gốc.
Tuy nhiên khi sử dụng hóa trị liệu không chỉ tiêu diệt tế bào ung thư mà nó còn làm tổn thương các tế bào khỏe mạnh trong cơ thể, gây ra tác dụng phụ như:
– Giảm số lượng các tế báo máu khỏe mạnh: Giảm bạch cầu tăng nguy cơ nhiễm trùng, giảm tiểu cầu khiến cơ thể dễ chảy máu, bầm tím; giảm hồng cầu gây thiếu máu, mệt mỏi…
– Các tác dụng phụ khác như: buồn nôn và nôn, tiêu chảy, rụng tóc, lở loét miệng,…
Hóa trị liệu điều trị ung thư máu
3. Xạ trị
Xạ trị là phương pháp sử dụng các tia sáng có năng lượng cao, ví dụ như tia X, để giảm sự lây lan và tiêu diệt các tế bào ung thư. Phương pháp này được sử dụng phổ biến trong điều trị u lympho hạch giúp giảm đau khó chịu do lách to và sưng hạch bạch huyết hoặc giúp giảm đau do tổn thương xương do các tế bào bệnh bạch cầu phát triển trong tủy xương. Xạ trị cũng có thể được thực hiện với liều lượng thấp ngay trước khi cấy ghép tế bào gốc.Khi đó hệ thống miễn dịch của cơ thể suy giảm nên cũng ít khả năng từ chối tế bào cấy ghép.
Khi điều trị bệnh nhân sẽ nằm trên mặt phẳng với máy xạ trị ở trên và chiếu tia xạ vào bộ phận cần xạ trị. Bệnh nhân sẽ không cảm thấy bất cứ điều gì trong quá trình nhưng các tia xạ sẽ nhắm vào các tế bào ung thư trong khu vực được nhắm mục tiêu.
Tác dụng phụ của xạ trị ung thư máu phụ thuộc vào liều điều trị, bộ phận cơ thể bị bức xạ, thời gian xạ trị và các yếu tố khác. Bức xạ có thể làm giảm số lượng bạch cầu, có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng. Một số tác dụng phụ tiềm ẩn khác bao gồm mệt mỏi, buồn nôn, tiêu chảy, chán ăn và kích ứng da.
Xạ trị liệu điều trị ung thư máu
4. Thuốc điều trị mục tiêu
Bệnh nhân sẽ được sử dụng thuốc để chặn sự tăng trưởng của các tế bào ung thư bạch cầu. Phương pháp điều trị ung thư hoạt động bằng cách nhắm mục tiêu vào những thay đổi di truyền tế bào ung thư có, mà tế bào bình thường không có. Có nhiều loại khác nhau, một số trong số chúng cũng có thể được gọi là liệu pháp sinh học.
– Sử dụng kháng thể.
– Chất ức chế sự phát triển của tế bào ung thư: Thuốc ngăn chặn các tín hiệu tăng trưởng của tế bào ung thư làm chúng không phát triển cũng như phân chia bình thường. Ví dụ như các thuốc ibrutinib, bortezomib, chất ức chế Tyrosine kinase (TKIs)… TKIs thường được sử dụng để điều trị CML (bệnh bạch cầu dòng tủy mãn tính).
Thuốc Imatinib điều trị ung thư máu
5. Liệu pháp miễn dịch
Liệu pháp miễn dịch là một cách điều trị ung thư sử dụng hệ thống miễn dịch của chính bệnh nhân để tấn công ung thư. Thuốc tự gắn vào tế bào ung thư, giúp tế bào ung thư dễ dàng tìm thấy hơn đối với hệ thống miễn dịch. Sau đó, hệ thống miễn dịch của bạn sẽ tấn công tế bào ung thư. Tiêu biểu chính là sử dụng kháng thể đơn dòng.
Kháng thể đơn dòng MAB là kháng thể nhân tạo. Khi chúng ở trong cơ thể có thể tìm thấy và bám vào các tế bào ung thư, và tiêu diệt chúng. Chúng hoạt động bằng cách nhận ra các protein đặc biệt trên bề mặt của tế bào ung thư. Các kháng thể đơn dòng hoạt động theo những cách khác nhau. Một số cản trở các tín hiệu phân chia tế bào ung thư. Những loại khác hoạt động bằng cách mang thuốc hóa trị liệu trực tiếp đến tế bào ung thư. Một số gắn vào các tế bào ung thư giúp hệ thống miễn dịch dễ nhận biết và tiêu diệt. Tất cả các loại thuốc kháng thể đơn dòng đều có tên kết thúc bằng “mab”. Ví dụ như rituximab.
Ngoài ra liệu pháp miễn dịch tiên tiến hơn là liệu pháp tế bào T CAR, trong đó các tế bào T (một loại tế bào bạch cầu thường chống lại nhiễm trùng trong cơ thể) được biến đổi gen để tăng khả năng tìm và tiêu diệt tế bào ung thư. Phương pháp này đặc biệt hiệu quả đối với một số trường hợp bệnh bạch cầu khó điều trị.
Kháng thể đơn dòng điều trị ung thư máu
6. Ghép tủy, cấy tế bào gốc
Đây là phương pháp áp dụng sau khi người bệnh đã được hóa trị, xạ trị. Những tế bào gốc sẽ được cấy vào người bệnh thông qua một tĩnh mạch lớn. Phương pháp này được đánh giá là hiệu quả hơn cả với tỷ lệ 50% bệnh nhân có thể kéo dài cuộc sống sau khi thực hiện.
Tế bào gốc là những tế bào đang ở giai đoạn phát triển ban đầu, chưa biệt hóa. Tất cả các tế bào máu bắt đầu như là tế bào gốc trong tủy xương. Ung thư máu xảy ra khi có sự cố xảy ra với sự phát triển của các tế bào máu và trở thành ung thư.
Cấy ghép tế bào gốc có nghĩa là thay thế các tế bào gốc trong cơ thể bệnh nhân bằng các tế bào gốc mới, khỏe mạnh. Những tế bào gốc sau khi được cấy vào cơ thể sẽ sản sinh ra các tế bào máu mới thay thế những tế bào bị hủy diệt trong quá trình điều trị trước đó. Các tế bào được cung cấp cho bạn trong quá trình cấy ghép là vào tĩnh mạch của bạn, tương tự như cách hóa trị hoặc truyền máu.
Có hai hình thức cấy ghép tế bào gốc:
– Autograft/autologous: Các tế bào gốc của chính bệnh nhân được thu thập và lưu trữ, và được cấy ghép cho bệnh nhân.
– Allograft/allogeneic: Sử dụng các tế bào gốc của người hiến tặng để cấy ghép. Những người thích hợp nhất là người có chung huyết thống với bệnh nhân.
Điều trị ung thư máu bằng cấy ghép tế bào gốc
Ngoài các phương pháp nêu trên thì bệnh nhân có thể thực hiện phẫu thuật khi bị ung thư hạch cần phải cắt bỏ lá lách. Song song với việc điều trị bệnh nhân cũng kết hợp các biện pháp hỗ trợ điều trị triệu chứng, nâng cao thể trạng.
Các biện pháp điều trị ung thư máu đều có thể tiềm ẩn các tác dụng không mong muốn. Tuy nhiên việc điều tị là cần thiết để giúp ngăn bệnh phát triển nặng và giảm tỷ lệ tử vong. Hiện nay tỷ lệ thành công của việc chữa trị bệnh ung thư máu khá thấp và bệnh vẫn có khả năng tái phát cao. Hy vọng trong tương lai với sự phát triển của y học thì sẽ có thêm đột phá giúp cải thiện phương pháp điều trị và tăng cơ hội sống cho bệnh nhân.