Khỉ dùng để thử nghiệm có cân nặng không dưới 1,5 kg. Dùng khỉ loài Macaca hoặc Cercopithecus. Hỗn dịch bán thành phẩm đã lọc phải thử song song với chế phẩm chuẩn bằng cách tiêm vào sừng trước tủy sống khi tại đoạn thắt lưng. Trước khi tiêm phải lấy máu khỉ và kiểm tra để chứng tỏ huyết thanh của chủng không chứa kháng thể trung hòa đối với từng týp virus bại liệt. Những tiêu bản tổ chức học khi đã đọc xong cần phải được lưu lại trong thời gian 10 năm để làm bằng chứng.
Số lượng khỉ
Vắc xin thử và mẫu chuẩn đồng týp cần thử nghiệm song song với số lượng khỉ bằng nhau. Phân chia ngẫu nhiên nhóm khỉ sẽ được tiêm vắc xin thử hoặc mẫu chuẩn. Phải đạt được ít nhất 11 khỉ dương tính cho vắc xin thử và ít nhất 11 khỉ dương tính cho mẫu chuẩn đối với týp 1 và týp 2 (khỉ dương tính là khỉ có những tổn thương thần kinh đặc hiệu do virus bại liệt ở hệ thần kinh trung ương nhưng không bị liệt). Đối với týp 3 phải có ít nhất 18 khỉ dương tính cho vắc xin thử và 18 khỉ dương tính cho mẫu chuẩn.
Có thể tiêm một lúc nhiều loại vắc xin bán thành phẩm mà chỉ cần 1 mẫu chuẩn đồng týp.
Để có thể có được 11 và 18 khỉ dương tính thường là tiêm 12 và 20 khỉ tương ứng.
Gây mê khỉ bằng ketamin hydroclorid hoặc những thuốc gây mê phù hợp khác.
Hàm lượng virus của vắc xin thử và mẫu chuẩn trong liều tiêm
Hàm lượng virus của vắc xin thử và mẫu chuẩn đồng týp tiêm cho khỉ phải càng giống nhau càng tốt và nằm trong khoảng 105,5 đến 106,5 CCID50/0,1 ml. Chỉ tiêm một đậm độ.
Theo dõi khỉ sau tiêm
Theo dõi khỉ sau tiêm từ 17 ngày đến 22 ngày để phát hiện triệu chứng nghi do virus bại liệt hoặc các virus khác. Những khỉ sống qua 24 h và chết trước 11 ngày sau tiêm cần phải giải phẫu để xác định xem có phải chết do virus bại liệt hay không.
Tất cả những khỉ chết do những nguyên nhân không phải virus bại liệt thì không tính vào kết quả nhưng vẫn phải ghi vào phiếu theo dõi.
Những khỉ liệt nặng hoặc hấp hối và tất cả những khỉ sống qua giai đoạn theo dõi đều phải giải phẫu đại thể và vi thể.
=> Đọc thêm: Xác định hàm lượng nitơ toàn phần của vắc xin và sinh phẩm bằng thuốc thử Nessler (Phụ lục 15.18) – Dược Điển Việt Nam 5.
Số lượng các tiêu bản phải đánh giá
* Phải làm tiêu bản từng con khỉ để kiểm tra tổ chức học ít nhất các vùng sau:
Tủy sống: Vùng phình lưng, vùng phình cổ.
Phần trên và phần dưới của hành tủy.
Não giữa (mesocephalon).
Cầu não, tiểu não.
Đồi thị.
Vùng vận động của vỏ não.
Tiêu bản cắt mỏng 8 μm đến 15 μm và nhuộm gallocyanin hoặc nhuộm Nissl.
* Số tiêu bản tối thiểu phải kiểm tra như sau;
12 tiêu bản đại diện cho vùng phình lưng.
10 tiêu bản đại diện cho vùng phình cổ.
2 tiêu bản vùng hành tủy.
1 tiêu bản vùng cầu não và tiểu não.
1 tiêu bản não giữa.
Đồi thị phải và trái, mỗi bên 1 tiêu bản.
Vỏ não bán cầu phải và trái mỗi bên 1 tiêu bản.
Cho điểm hoạt tính virus trên tiêu bản
Dùng phương pháp cho điểm theo mức độ tổn thương để đánh giá hoạt tính của virus trong từng nửa tiêu bản. Kiểu tổn thương như là thâm nhiễm tế bào hoặc phá hủy tế bào thần kinh đều quan trọng, các tổn thương được cho điểm như sau:
Điểm 1 – Chỉ có thâm nhiễm tế bào (điểm này không đủ để tính là khỉ dương tính).
Điểm 2 – Thâm nhiễm tế bào và có hủy hoại nơron tối thiểu.
Điểm 3 – Thâm nhiễm tế bào với hủy hoại nhiều nơron.
Điểm 4 – Hủy hoại nhiều nơron có hoặc không có thâm nhiễm tế bào.
Ghi điểm và báo cáo theo biểu mẫu chuẩn.
Khỉ có tổn thương nơron nhưng không có vết tiêm vẫn được coi là khỉ (+).
Khỉ có vết tiêm trên tiêu bản nhưng không có tổn thương nơron là khỉ (-).
Tiêu bản có tổn thương do tiêm nhưng không có tổn thương virus đặc hiệu thì không tính điểm.
Đọc và cho điểm từng nửa tiêu bản (NTB) của vùng thắt lưng (L); cổ (C); não (B).
Điểm tổn thương của từng con khỉ dương tính được tính như sau:
LS = [(Tổng số điểm L/Tổng số NTB) + (Tổng số điểm C/Tổng số NTB) + (Tổng số điểm B/Tổng số NTB)]/3
Đánh giá thử nghiệm độc tính thần kinh
Dựa trên hoạt tính ở vùng phình lưng và mức độ lan truyền lên vùng phình cổ và não, so sánh hoạt tính giữa vắc xin thử và mẫu chuẩn.
Việc xuất xưởng hoặc hủy bỏ vắc xin dựa trên điểm tổng thể của toàn bộ súc vật thử nghiệm. Những khỉ có hoạt tính cao khác thường hoặc ở vùng thắt lưng hoặc ở mức độ lan truyền đều phải tính đến trong đánh giá cuối cùng.
Bán thành phẩm đã lọc đạt tiêu chuẩn nếu số khỉ dương tính đạt yêu cầu và không có khác biệt có ý nghĩa thống kê về lâm sàng cũng như tổ chức học giữa vắc xin thử và mẫu chuẩn.
=> Tham khảo: Thử nghiệm nhận dạng thành phần bạch hầu – uốn ván – ho gà trong vắc xin DTwP hấp phụ (Phụ lục 15.19) – Dược Điển Việt Nam 5.