LỘC GIÁC 

0
3149

LỘC GIÁC
Cornu Cervi
Gạc hươu

Sừng già (gạc) đã hoá xương hay gốc sừng (giác cơ) rụng  xuống sau khi đã cưa lấy nhung của Hươu sao đực (Cervus  nippon Temminck), họ Hươu (Cervidae).
Người ta quen gọi là gạc Hươu sao (Mai hoa lộc giác) và  gốc gạc hươu rụng (Lộc giác thoát bản).

Mô tả

Gạc Hươu sao: Thường chia thành 3 đến 4 nhánh, dài  30 cm đến 60 cm, đường kính 2,5 cm đến 5 cm, hai bên  đối xứng. Đa số nhánh cạnh phát triển hướng về hai bên,  nhánh thứ nhất tương đối gần gốc sừng (Trân châu bàn),  nhánh thứ hai gần nhánh thứ nhất. Đầu nhánh chủ (nhánh  chính) chia thành hai nhánh nhỏ. Mặt ngoài màu nâu vàng  hoặc nâu xám. Đầu nhánh màu trắng xám không có lông.  Bộ phận giữa và dưới thường có dạng bướu hay mấu nhỏ  nổi lên, thường gọi là cốt đinh (đính xương), cốt đinh sắp  xếp thành cạnh (lăng) dọc, không liên tục; ở dưới gốc sừng  có mâm lồi lên gọi là Trân châu bàn. Chất rắn chắc. Mặt  cắt có vòng ngoài màu trắng, giữa màu xám, có những lỗ dạng tổ ong nhỏ. Vị hơi mặn.
Gốc gạc hươu rụng (Lộc giác thoát bàn): Hình mũ trụ hoặc  mũ trụ dẹt, đường kính 3 cm đến 6 cm. Trân châu bản, đường kính 4,5 cm đến 6,5 cm, cao 1,5 cm đến 4 cm. Mặt ngoài  màu nâu xám hay nâu vàng xám, sáng bóng. Phần giữa có  lỗ dạng tổ ong. Mặt đáy phẳng, giống hình tổ ong, hầu hết  màu trắng vàng hoặc nâu vàng. Mép chung quanh Trân châu  bàn thường có lỗ nhỏ thưa. Mặt trên hơi phẳng, hình bán cầu  không đều, chất cứng. Vòng ngoài mặt cắt có chất xương  màu trắng xám, phần giữa màu trắng. Vị hơi mặn.

Chất chiết được trong dược liệu

Không ít hơn 17,0 %.
Cân chính xác khoảng 4 g bột thô chể phẩm vào cốc có mỏ,  thêm 90 ml  nước, đun sôi nhẹ trong 1 h (bổ sung lượng  nước hao hụt trong quá trình đun), lọc nóng, rửa cắn với  10 ml nước nóng, lọc. Gộp các dịch lọc và chuyển vào bình  định mức 100 ml, thêm nước vừa đủ đến vạch, lắc đều. Lấy  chính xác 25 ml dung dịch thu được vào cốc thủy tinh đã  làm khô và cân bì trước, cô trong cách thủy đến cắn khô,  cắn thu được sấy ô 105 °C trong 3 h, lấy ra để nguội trong  bình hút ẩm 30 min, cân nhanh đế xác định khối lượng cắn.  Tính phần trăm lượng chất chiết được bằng nước.

Chế biến

Thường thu lấy gạc hươu vào mùa xuân khi gạc rụng hoặc  gốc sừng rụng xuống sau khi đã cưa lấy nhung hươu năm  trước (gốc sừng còn lại, sẽ rụng vào mùa xuân nàm sau).

Bào chế

Rửa sạch gạc, cưa thành khúc, ngâm tẩm trong nước ấm,  vớt gạc ra, chẻ thành phiến, phơi âm can đến khô, hoặc tán  thành bột thô.

Bảo quản

Để gạc nơi khô, mát.

Tính vị, quy kinh

Hàm, ôn. Vào các kinh can, thận.

Công năng, chủ trị

Ôn thận dương, mạnh gân xương, hành huyết, tiêu thũng.  Chủ trị: Liệt dương di tinh, thất lưng cột sống đau lạnh, âm  thư, mụn nhọt, nhọt vú mới phát, ứ huyết sưng đau.

Cách dùng, liều lượng

Ngày dùng 6 g đến 15 g, dạng thuốc cao, chế tễ lộc giác  giao, lộc giác sương.

Kiêng kỵ

Người thận hư có hỏa không nên dùng, người thượng tiêu  có đờm nhiệt, trung vị có hỏa không nên uống.

Rate this post

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây